Điều bí mật sau 60 năm

Thứ năm, 01/01/2015 09:05

(Cadn.com.vn) - Có một sự kiện cần giữ bí mật, chúng tôi được nghe phổ biến trực tiếp là không được nói lại với bất cứ ai, đã xảy ra từ khi tất cả chúng tôi đều là trai chưa vợ gái chưa chồng, mới xấp xỉ hai mươi nay chúng tôi mới kể. 60 năm sau, chúng tôi hầu hết đã vượt qua tuổi lai hy, tất cả đã về hưu trở thành dân vạn đại, chúng tôi mới bàn nhau phá vỡ quy định. Xin kể:

Năm 1953, 1954 Bộ Công an quyết định điều động hơn 500 đồng chí cán bộ cấp xã, cấp huyện trong cả nước về tập trung trong khu rừng rậm cuối tỉnh Tuyên Quang để theo học lớp đào tạo chiến sĩ an ninh Khóa I rồi Khóa II. Để giữ tuyệt đối bí mật, tất cả lán sinh hoạt, nhà bếp, nhà ăn, hội trường… đều bố trí dưới rặng cây cổ thụ, kín tới mức những người ở dưới đất khó nhìn thấy bầu trời. Ban giám hiệu do thầy Lân Hiệu trưởng. Các thầy Côn, Hồng Hà làm hiệu phó tuy đã cố gắng hết mức song tiêu chuẩn học viên chỉ được ngày hai bữa, bữa trưa chủ yếu là ngô bung, cơm độn. Không ai được phát giày dép hoặc quần áo. Từ nông thôn ra đi, nhiều cô gái còn vấn khăn, mặc áo bà ba, nhuộm răng đen. Không ít học viên nam diện quần áo nhuộm nâu, nhuộm chàm.

Sau ngày có Hiệp định Genève, số phận trên 500 học viên được định đoạt. Chúng tôi không học tiếp chương trình nữa mà nghe phổ biến là sẽ đi tiếp quản Thủ đô. Thủ đô ở đâu? Thủ đô có lớn gấp dăm bảy lần làng quê chúng tôi không? Chúng tôi đều mù tịt vì chưa ai đặt chân đến nơi này. Thầy Lân Hiệu trưởng đã mời các giảng viên đem theo bản đồ, ảnh chụp, tranh vẽ... giới thiệu toàn cảnh Hà Nội và những quy định nghiêm ngặt yêu cầu các cán bộ vào tiếp quản Thủ đô phải chấp hành. Chúng tôi đều cảm thấy rất vinh dự trước trách nhiệm vô cùng nặng nề.

Công an TP Hà Nội gặp mặt các cán bộ tham gia tiếp quản Thủ đô.

Các học viên không được lệnh xuất phát cùng một ngày mà được xé lẻ thành nhiều toán khác nhau, thời gian lên đường không giống nhau và người nọ không biết người kia đi đâu, làm gì. Thầy hiệu trưởng tuyên bố dứt khoát:

- Về Hà Nội, dù có bất ngờ gặp nhau trong cuộc họp hay giữa phố đều không được phép nhận nhau; không được hỏi bạn ở đâu, làm gì, liên hệ với ai? Từng đồng chí sẽ được bố trí công tác riêng, sẽ có đầu mối liên lạc riêng để giao nhiệm vụ.

Có ý kiến chất vấn Ban giám hiệu:

- Quân Pháp rút hết rồi. Thủ đô Hà Nội là của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, có còn chính quyền cũ đâu mà phải cảnh giác?

Thầy hiệu trưởng phê phán các học viên quá mơ hồ, không nhận thấy thành phố địch mới rút còn gài lại biết bao gián điệp và đủ loại cạm bẫy chống lại ta. Thầy cho biết, trong số chúng tôi sẽ có người trở thành nhà buôn (chị Đào Thanh Tước được phân công việc này) chuyên buôn thúng, bán mẹt hay có quầy hàng ở chợ Đồng Xuân, chợ Mơ, chợ Hàng Da... Càng nghe, chúng tôi càng thấy tầm quan trọng của công tác an ninh. Đoàn cán bộ phụ nữ Thanh Hóa có 10 nam và 12 chị cùng phối hợp với các chị ở Nam Định, Phú Thọ, Ninh Bình, Hà Nam lập thành đoàn 28 người  nhiều người mới thoát mù chữ có nhiệm vụ về tiếp quản Bưu điện Hà Nội do Nguyễn Thị Xuân lãnh đạo được đi chung một bè. Đoàn đến Thường Tín đêm 7-10-1954. Chỉ có 3 ngày song có bao việc cần làm. Ngày rời Tuyên Quang, Ban giám hiệu đã chạy ngược, chạy xuôi cũng chỉ có khả năng trang bị cho mỗi học viên một áo hoặc quần vải. Chúng tôi không thể diện bộ cánh mà mọi người gọi đùa là "nhà quê", màu cháo lòng hoặc những ai có bộ tươm nhất cũng đã cũ, lạc lõng, không hợp kiểu thành thị. 28 chị em chúng tôi được các bác thợ may đến đo kích thước và chỉ một ngày sau, chúng tôi được cấp phát mỗi người một quần lụa đen, một áo lụa trắng, một quần âu, áo vest bằng vải kaki màu sáng. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, chúng tôi sang hẳn lên nhưng ai cũng lúng túng, cũng ngượng không biết xoay xở ra sao với chiếc quần tây mà khi mặc vào người cứ cứng đơ như chân gỗ.

Sáng tháng 10-1954, chúng tôi được nhập vào đoàn lớn hơn do người của Bưu điện được giới thiệu là đồng chí Tôn Tích Phong, cán bộ Nha Bưu điện cũng mới từ Tuyên Quang về. Bước vào ngôi nhà quá cao, rất to, rất rộng, các cô gái đều choáng ngợp, rất hồi hộp nhưng nhớ tới lời dặn phải giữ đúng tư thế người chiến thắng nên các cô đã chủ động nắm quyền kiểm soát Bưu điện. Các cán bộ lãnh đạo của trường đã thống nhất trước về phân công nên lực lượng nòng cốt của Công an cử sang được giao mỗi người một việc. Các chị nhận điều khiển Tổng đài thật vô cùng vất vả. Bên cạnh các chị là cô hoặc bà công nhân lưu dung, những người đã làm việc này hàng chục năm nên rất nhanh nhẹn, tháo vát. Các chiến sĩ An ninh chúng tôi trình độ văn hóa thấp, hầu hết chỉ mới đọc thông, viết thạo nên trí nhớ không thật tốt, không thạo cắm phích để phục vụ khách hàng nhanh nhất. Mỗi tổng đài thời đó có khoảng 50 máy. Nghe chuông đổ, thấy tín hiệu nhấp nháy, chúng tôi biết ngay ai gọi đến. Phải làm sao khi họ nói số gọi, chúng tôi phải nối liên lạc ngay. Do lo sợ không hoàn thành trách nhiệm; do ăn ngủ tại chỗ và không dám ra phố vì sợ lạc đường nên các chị bảo nhau học ngày, học đêm do đó nhiệm vụ chuyên môn có tiến bộ trông thấy. Tuy vậy, việc của trường giao, chúng tôi rất khó thực hiện. Theo quy định của ngành Bưu điện, tất cả nhân viên Tổng đài đều không có nhiệm vụ và không được phép nghe trộm nội dung điện đàm của khách nhưng vì công tác đảm bảo an ninh sau ngày mới giải phóng, chúng tôi nhận lệnh phải theo dõi âm mưu gây bạo loạn, dự định đảo chính hoặc cướp phá nơi nào đó được chuyền đi từ số máy A hoặc B. Chúng tôi không thể công khai làm việc này vì lúc nào cũng có công nhân lưu dung ngồi cạnh. Tuy vậy chỉ cần theo dõi 1 hoặc 2 máy nên ai cũng có cách "ru ngủ" bạn cùng nghề. Những chiến sĩ an ninh được phân công làm nhân viên khai thác có thuận lợi hơn, nhưng không phải không gặp trở ngại. Gạn lọc qua thư từ, tài liệu, bưu phẩm gửi qua đường Bưu điện, chúng tôi tìm thấy vài địa chỉ mà sếp cần theo dõi. Chúng tôi phải tìm cách nào đó giấu thư để đem giao tại điểm hẹn. Ngày hôm sau, đúng giờ quy định, chúng tôi giao "của quý" mới, nhận thư cũ về trả lại cho khách.

Những năm 1955, 1956 các chiến sĩ An ninh trở thành những nhân viên Tổng đài tài giỏi, có thể độc lập tác chiến, bỗng có lệnh được điều động sang phụ trách Tổng đài nhiều Bộ quan trọng và cơ quan giao tế, nơi tiếp chuyên gia nước ngoài.

Những ngày về tiếp quản Thủ đô, chúng tôi nhớ rất rõ là danh sách các học viên được điều động về Bộ công an rất đông khoảng gần 300 đồng chí. Nửa thế kỷ sau, tất cả học viên An ninh đều đã nghỉ hưu. Trừ những đồng chí đã hy sinh trong chiến tranh, đã từ trần, đã về quê, đã đi lập nghiệp các tỉnh khác hiện có 123 cựu học viên là Công an với gần 30 đồng chí ở cấp Thiếu tướng, Đại tá, Thượng tá như: Đại tá nguyên Giám đốc Công an Hà Nội Nguyễn Đình Thành và chú em út Đào Đức Ninh năm 1954 mới 17 tuổi nguyên Quận trưởng Công an quận Hoàn Kiếm. Những cô gái về tiếp quản bưu điện năm xưa có người đã lên chức Giám đốc, Trưởng phòng. Những đồng chí nữ được điều động trở lại ngành Công an đều mang quân hàm Trung tá, Thượng tá trước khi nghỉ hưu. Tất cả chúng tôi đều được tham gia Câu lạc bộ các cán bộ hưu trí của trường An ninh. Vừa qua, đoàn đã tổ chức thăm lại cội nguồn, tham quan chiêm ngưỡng cây đa Tân Trào, hang Pắc Pó; địa điểm Trường An ninh năm xưa... Các cán bộ Công an đương chức ở Tuyên Quang, Cao Bằng đều đón tiếp các sư phụ, sư mẫu, sư huynh, sư tỉ rất thân tình, vị nể.

Tiết lộ bí mật những việc có thật cách đây 60 năm, chúng tôi rất mong bạn đọc thông cảm với những gian khổ, thiếu thốn của chúng ta khi về tiếp quản Thủ đô. Với 721 giáo viên, học viên, người phục vụ Trường An ninh chúng tôi khi về tiếp quản Thủ đô thì đây là kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất về những ngày đẹp nhất của đời mình.

Họp mặt cuối cùng ngày 19-8-2014, chúng tôi chỉ còn chưa đủ một trăm đồng chí. Giám đốc Công an Hà Nội, Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung có ý định tiếp tất cả sư phụ, sư mẫu mà người ít tuổi nhất là Đại tá Đào Đức Ninh "mới" 61+17=78 tuổi đúng ngày 4-10-2014 tại Hội trường Trần Bình Trọng.

LÊ THỊ THẢNG (kể)

NGUYỄN TRẦN THIẾT (ghi)